Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam |
Bài 7: XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
I. BẢN CHẤT VÀ ĐẶC TRƯNG CỦA NHÀ
NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1. Bản chất của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
a) Khái niệm và bản chất nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền có từ rất sớm ở
Hy Lạp. Đến thế kỷ XVIII, các nhà dân chủ tư sản tiếp tục hoàn thiện, nâng lên
thành một học thuyết về Nhà nước pháp quyền. Đây là học thuyết tiến bộ, nhân đạo
đã trở thành giá trị của nền văn minh nhân loại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm tới nhà nước pháp
quyền từ sớm. Năm 1919, trong bản Yêu sách của nhân dân An Nam do Người ký tên
là Nguyễn Ái Quốc, gửi đến Hội nghị Vécxây (Pháp) đã nêu yêu cầu cải cách nền
pháp lý ở Đông Dương, “Thay thế chế độ ra các sắc lệnh bằng các đạo luật”. Năm
1941, trong “Việt Nam yêu cầu ca”, Người viết thành thơ 8 yêu cầu chính, trong
đó “Bảy xin hiến pháp ban hành. Trăm đều phải có thần linh pháp quyền”. Sau
này, với tư cách là người sáng lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, tư tưởng
của Người về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân đã được thể hiện rõ hơn. Cho đến trước đổi mới, Đảng ta chưa dùng khái
niệm nhà nước pháp quyền, mặc dù trong các Hiến pháp 1946, 1959, 1980 đã thể hiện
tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng pháp luật và tổ chức hoạt động của bộ máy
nhà nước.
Trong công cuộc đổi mới, nhận thức của Đảng về
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ngày càng rõ hơn. Lần đầu tiên thuật ngữ
xây dựng nhà nước pháp quyền được đề cập tại Hội nghị Trung ương 2 khóa VII
(năm 1991). Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (01-1994) ), Đảng
ta đã dùng khái niệm nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là sự khẳng định và thừa nhận Nhà nước
pháp quyền là một tất yếu lịch sử. Nó không phải là sản phẩm riêng có của xã hội
tư bản chủ nghĩa mà là tinh hoa, sản phẩm trí tuệ của xã hội loài người, của nền
văn minh nhân loại.
Từ đó về sau, các Đại hội VIII, IX, X, XI và
XII, Đảng tiếp tục khẳng định nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam và làm rõ thêm các nội dung của nó. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, bổ sung, sửa đổi năm 2013, (Gọi tắt là Hiến pháp năm 2013)
khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” .
Hiện nay việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam đã có những tiến bộ rõ rệt. Tuy nhiên còn một số hạn chế về
phân định giữa vai trò lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý, điều hành của Nhà
nước, tổ chức thực hiện pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa. Để duy trì và
phát huy bản chất tốt đẹp của Nhà nước Việt Nam, để nâng cao năng lực lãnh đạo,
quản lý điều hành của nhà nước, thúc đẩy mạnh mẽ cải cách kinh tế-xã hội, xây dựng
nền kinh tế thị trường, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội
nhập quốc tế; để tăng cường đấu tranh chống quan liêu, tham những, tiêu cực,
lãng phí, đảm bảo cho Nhà nước không ngừng vững mạnh, có hiệu lực để giải quyết
có hiệu quả các nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, giữ vững độc lập, tự chủ và
hội nhập vững chắc vào đời sống quốc tế..., tất yếu và cần thiết phải xây dựng
và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
b) Bản chất của Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam
- Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã chỉ rõ: “Nhà nước
ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo” .
Khẳng định trên nói lên các mặt bản chất của
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Một là, nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực
nhà nước
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
mang bản chất giai cấp công nhân. Hoạt động của Nhà nước thể hiện quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện ý chí, nguyện vọng và phục vụ lợi ích của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc.
Bản chất giai cấp công nhân, tính dân tộc và
tính nhân dân của Nhà nước được quán triệt, cụ thể hóa, thể chế hóa và thực hiện
trên mọi lĩnh vực, mọi tổ chức, hoạt động của Nhà nước.
Bản chất nhân dân của Nhà nước ta thể hiện tất
cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; thể hiện quyền lực ở nơi
dân; chính quyền do nhân dân lập nên và tham gia quản lý. Nhà nước thể hiện ý
chí, lợi ích và nguyện vọng của nhân dân.
Cán bộ, công chức Nhà nước là công công bộc của
dân, tận tụy phục vụ nhân dân. Nhân dân với tư cách là chủ thể tối cao của quyền
lực nhà nước, thực hiện quyền lực nhà nước với nhiều hình thức khác nhau.
Hình thức cơ bản nhất là nhân dân thông qua bầu
cử lập ra các cơ quan đại diện quyền lực của mình.
Hai là, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là Nhà nước của tất cả các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam, là biểu hiện tập
trung của khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Điều 5 Hiến pháp năm 2013 quy định:
1. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam.
2. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng
và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc.
3. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc
có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục,
tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình.
4. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển
toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát
triển với đất nước.
Đây là cơ sở pháp lý vững chắc để đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước về vấn đề dân tộc và công
tác dân tộc được khẳng định trong thực tiễn; quyền và nghĩa vụ công dân cũng
như đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số được đảm bảo, không ngừng được nâng
lên.
Tính dân tộc trong tổ chức và hoạt động của Nhà
nước thể hiện qua sự kế thừa và phát huy những truyền thống, bản sắc tốt đẹp của
dân tộc và con người Việt Nam, có chính sách dân tộc đúng đắn, chăm lo lợi ích
mọi mặt cho các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam, coi đoàn kết dân tộc, đoàn kết
toàn dân là đường lối chiến lược và động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;
giữ vững độc lập, tự chủ trong trong quan hệ đối ngoại; kết hợp đúng đắn chủ
nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công
nhân
Tính dân tộc vừa là bản chất, vừa là truyền thống,
là nguồn gốc sức mạnh của của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tính
dân tộc của Nhà nước được tăng cường nhờ kết hợp với tính giai cấp, tính nhân
dân.
Ba là, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam tôn trọng và bảo vệ quyền con người, các quyền và tự do của công dân, giữ vững
mối liên hệ giữa Nhà nước và công dân, giữa Nhà nước và xã hội
Vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công dân,
mở rộng quyền dân chủ, nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân,
giữa công dân với Nhà nước… được Hiến pháp Nhà nước khẳng định. Điều 14 Hiến
pháp 2013 khẳng định “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con
người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công
nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” .
Quy định trên thể hiện sự phát triển quan trọng
về nhận thức và tư duy trong việc ghi nhận quyền con người, quyền công dân
trong Hiến pháp..
Với quan niệm đề cao chủ quyền Nhân dân trong
Hiến pháp, coi Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực Nhà nước, thì quyền
con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được xác định ở vị trí trang
trọng hàng đầu trong Hiến pháp, thể hiện nhất quán đường lối của Đảng và Nhà nước
ta trong việc công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Bốn là, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam mang bản chất dân chủ rộng rãi
Dân chủ hoá đời sống xã hội và hoạt động của
Nhà nước là đòi hỏi có tính nguyên tắc, nảy sinh từ bản chất dân chủ của Nhà nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Thực chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa là thu
hút những người lao động tham gia một cách bình đẳng và ngày càng rộng rãi vào
quản lý công việc của Nhà nước và của xã hội. Vì vậy, quá trình xây dựng Nhà nước
phải là quá trình dân chủ hoá tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, đồng thời,
phải cụ thể hoá tư tưởng dân chủ thành các quyền của công dân, quyền dân sự,
chính trị cũng như quyền kinh tế, xã hội và văn hoá. Phát huy được quyền dân chủ
của nhân dân ngày càng rộng rãi là nguồn sức mạnh vô hạn của Nhà nước.
Những đặc điểm mang tính bản chất nêu trên của
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thể hiện cụ thể trong các chức
năng, nhiệm vụ của Nhà nước và được pháp luật chế định một cách chặt chẽ.
Năm là, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước
Điều 4 Hiến pháp năm 2013 khẳng định:
“1. Đảng Cộng sản Việt Nam-Đội tiên phong của
giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của
dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
2. Đảng
Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân,chịu sự giám
sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình.
3. Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng
sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” .
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là tất yếu
khách quan để giữ vững được bản chất giai cấp công nhân, đảm bảo quyền lực thuộc
về nhân dân., do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội
tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao
động và của cả dân tộc Việt Nam, là người lãnh đạo để thực hiện quyền lực của
nhân dân. Đó chính là tính chất giai cấp của Nhà nước ta.
Tuy nhiên, Đảng lãnh đạo Nhà nước không có
nghĩa là Đảng bao biện, làm thay Nhà nước, mà là để phát huy trách nhiệm, tính
chủ động, sắc bén và hiệu lực trong quản lý, điều hành của Nhà nước, đảm bảo thực
hiện đường lối của Đảng trong thực tiễn. Đảng lãnh đạo Nhà nước là lãnh đạo xây
dựng Nhà nước thực sự là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân
dân.
Đảng phát huy vai trò trách nhiệm của Mặt trận
Tổ quốc, các đoàn thể, các tổ chức xã hội và nhân dân trong việc tham gia xây dựng,
kiểm tra giám sát hoạt động và bảo vệ Nhà nước.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước được thể
hiện ở chỗ: Đảng đề ra đường lối, chủ trương, chính sách lớn cho sự phát triển
đất nước trong từng thời kỳ; Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa, cụ thể hóa đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng thành Hiến pháp, pháp luật, chính sách cụ
thể và lãnh đạo tổ chức nhân dân thực thi Hiến pháp, Pháp luật và chính sách. Đảng
lãnh đạo xây dựng tổ chức bộ máy tinh gọn và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
có phẩm chất, năng lực và trí tuệ; Đảng lãnh đạo bằng công tác kiểm tra việc
quán triệt, tổ chức thực hiện đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Củng
cố, nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức Đảng và đảng viên trong các
cơ quan Nhà nước làm tham mưu cho Đảng.
2. Đặc trưng của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Dựa trên tư tưởng của các nhà lý luận trên thế
giới về nhà nước pháp quyền nói chung; quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng về nhà nước pháp
quyền, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xây dựng theo năm đặc
trưng sau:
Một là, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là
nhà nước của dân, do dân, vì dân. Tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân.
Đặc trưng này được hiến định ngay trong bản Hiến
pháp đầu tiên của chính thể dân chủ cộng hoà ở nước ta, Hiến pháp 1946: “Xây dựng
một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân” và tiếp tục được khẳng định
trong các bản Hiến pháp 1959, 1980, 1992 và 2013. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân
dân, vì Nhân dân. 2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ;
tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” .
Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua
Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng
của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Đồng thời,
nhân dân có quyền giám sát, yêu cầu các đại biểu và cơ quan do nhân dân lập ra
trả lời những vấn đề của nhân dân đặt ra trong việc thực thi chức năng, nhiệm vụ,
đảm bảo quyền lợi của nhân dân.
Hai là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật; tôn trọng, bảo vệ
và coi Hiến pháp, pháp luật giữ vị trí tối thượng trong việc điều chỉnh tất cả
các quan hệ xã hội
Điều 8 Hiến pháp năm 2013 khẳng định:
1. Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến
pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên
tắc tập trung dân chủ.
2. Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức,
viên chức phải tôn trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với
Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân; kiên quyết đấu
tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền
.
Trong Nhà nước đó, ý chí của nhân dân được xác
lập một cách tập trung nhất, đầy đủ nhất và cao nhất bằng Hiến pháp. Hiến pháp
là Đạo luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất, quy định chế độ
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà
nước; là điều kiện quan trọng nhất bảo đảm sự ổn định xã hội và sự an toàn của
người dân.
Khi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, thì
quan hệ giữa Nhà nước và công dân đã thay đổi, công dân có quyền tự do, dân chủ
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đồng thời phải làm tròn nghĩa vụ
trước Nhà nước. Pháp luật bảo đảm thực hiện trách nhiệm hai chiều giữa Nhà nước
và công dân: quyền của công dân là nghĩa vụ, trách nhiệm của Nhà nước, nghĩa vụ
của công dân là quyền của Nhà nước.
Thực hiện tốt các cơ chế làm chủ của nhân dân:
làm chủ thông qua đại diện là cơ quan dân cử và các đoàn thể; làm chủ trực tiếp
bằng các hình thức nhân dân tự quản, bằng việc xây dựng và thực hiện các quy ước,
hương ước tại cơ sở. Đảng và Nhà nước tiếp tục đổi mới phong cách, bảo đảm dân
chủ trong quá trình chuẩn bị ra quyết định và thực hiện các quyết định.
Ba là, trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng có sự phân công rành mạnh,
phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước là trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp.
Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định: “Quyền lực
nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” . Quy định
này chỉ đạo thiết kế mô hình tổ chức Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Quyền lực Nhà nước là thống nhất vì tất cả quyền lực Nhà nước đều thuộc về
nhân dân, biểu hiện tập trung ý chí của nhân dân, bắt nguồn từ nhân dân. Nhà nước
ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Hoạt động của Nhà nước có phạm vi rộng lớn. Có
sự phân công rành mạch và sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong bộ máy
Nhà nước trong việc thực hiện ba quyền để đảm bảo tính độc lập, chủ động, tính
trách nhiệm cao của từng bộ phận trong việc thực thi quyền lực, đảm bảo tính thống
nhất, khách quan, hiệu quả, tránh tình trạng lạm quyền, chuyên quyền của từng
cơ quan Nhà nước.
Bốn là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân, nâng cao trách nhiệm
pháp lý giữa nhà nước và công dân, thực hành dân chủ đồng thời tăng cường kỷ luật,
kỷ cương.
Điều 3 Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định: “Nhà
nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng,
bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện” .
Nhà nước thể chế hoá đường lối, chính sách của
Đảng Cộng sản Việt Nam trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá
giáo dục khoa học, đối nội, đối ngoại. Pháp luật thể hiện ý chí và nguyện vọng
của nhân dân, phù hợp với hiện thực khách quan, thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Pháp luật của Nhà nước ta phản ánh đường lối,
chính sách của Đảng và lợi ích của nhân dân. Vì vậy, pháp luật phải trở thành
phương thức quan trọng đối với tính chất và hoạt động của Nhà nước và là thước
đo giá trị phổ biến của xã hội ta là công bằng, dân chủ, bình đẳng-những tố chất
cần thiết cho sự phát triển tiến bộ và bền vững của Nhà nước và xã hội.
Nhà nước pháp quyền đặt ra nhiệm vụ phải có một
hệ thống pháp luật cần và đủ để điều chỉnh các quan hệ xã hội, làm cơ sở cho sự
tồn tại một trật tự pháp luật và kỷ luật. Pháp luật thể chế hoá các nhu cầu quản
lý xã hội, là hình thức tồn tại của các cơ cấu và tổ chức xã hội và của các thiết
chế Nhà nước. Vì vậy, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật là lối sống
có trật tự và lành mạnh nhất của xã hội. Tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến
pháp và pháp luật.
Năm là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Chính quyền nhà nước chịu sự giám sát của nhân
dân, sự phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành
viên thuộc Mặt trận.
Điều 4 Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định:
“1. Đảng Cộng sản Việt Nam-Đội tiên phong của
giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của
dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với
Nhân dân, phục vụ Nhân dân,chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước
Nhân dân về những quyết định của mình.
3. Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng
sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” .
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền. Sự
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là tất yếu
lịch sử. Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo chính trị, quyết định
phương hướng chính trị của Nhà nước, bảo đảm cho Nhà nước ta thực sự là tổ chức
thực hiện quyền lực của nhân dân, thực sự của dân, do dân và vì dân, để thực hiện
thành công công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đảng tôn trọng tính tự chủ, ủng hộ mọi hoạt động
tự nguyện, tích cực, sáng tạo và chân thành lắng nghe ý kiến đóng góp của Mặt
trận và các đoàn thể. Đảng, Nhà nước có cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để Mặt
trận và các đoàn thể nhân dân hoạt động có hiệu quả, thực hiện vai trò giám sát
và phản biện xã hội.
Nhà nước triển khai tổ chức thực hiện các nghị
quyết, chủ trương của Đảng bằng các hoạt động quản lý nhà nước, tổ chức tạo điều
kiện thuận lợi cho nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội trên tất
cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã
hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại…
II. PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ XÂY DỰNG
VÀ HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1. Phương hướng xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
a) Những định hướng lớn xây dựng
và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
- Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển 2011) đã xác định:
Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về
nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân
công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội
bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với
nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý
kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm
soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm,
lạm quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân; giữ nghiêm kỷ cương xã hội,
nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân.
Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo
nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự phân công, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự
chỉ đạo thống nhất của Trung ương.
b)
Phương hướng, nhiệm vụxây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam
Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng
(1-2016)đã xác định rõ:
Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống
chính trị.
Trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phải
thực hiện dân chủ, tuân thủ các nguyên tắc pháp quyền và phải tạo ra sự chuyển
biến tích cực, đạt kết quả cao hơn. Xây dựng Nhà nước pháp quyền phải tiến hành
đồng bộ cả lập pháp, hành pháp, tư pháp và được tiến hành đồng bộ với đổi mới hệ
thống chính trị theo hướng tính gọn, hiệu lực; gắn với đổi mới kinh tế, văn
hóa, xã hội.
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo vệ hiến pháp và
pháp luật.
Nội dung nêu trên được cụ thể hóa thành các nhiệm
vụ và giải pháp cụ thể nhằm từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
2. Nhiệm vụ và giải pháp xây dựng
và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Một là, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới
hệ thống chính trị
Trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phải
thực hiện dân chủ, tuân thủ các nguyên tắc pháp quyền và phải tạo ra sự chuyển
biến tích cực, đạt kết quả cao hơn. Xây dựng Nhà nước pháp quyền phải tiến hành
đồng bộ cả lập pháp, hành pháp, tư pháp và được tiến hành đồng bộ với đổi mới hệ
thống chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; gắn với đổi mới kinh tế,
văn hóa, xã hội. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật.
Hai là, hoàn thiện thể chế, chức năng, nhiệm vụ,
phương thức và cơ chế vận hành, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa
Tiếp tục hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn, tổ chức của Nhà nước theo quy định của Hiến pháp năm 2013, đáp ứng các đòi
hỏi của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong điều kiện phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Nhà nước
được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến
pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Phân định rõ hơn vai
trò và hoàn thiện cơ chế giải quyết tốt mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường.
Đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật gắn với tổ
chức thi hành pháp luật nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa. Bảo đảm pháp luật vừa là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội,
vừa là công cụ để nhân dân làm chủ, kiểm tra, giám sát quyền lực nhà nước. Quản
lý đất nước theo pháp luật, đồng thời coi trọng xây dựng nền tảng đạo đức xã hội.
Xác định rõ cơ chế phân công, phối hợp thực thi
quyền lực nhà nước, nhất là cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở quyền lực
nhà nước là thống nhất; xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của mỗi quyền.
Đồng thời, quy định rõ hơn cơ chế phối hợp trong việc thực hiện và kiểm soát
các quyền ở các cấp chính quyền. Tiếp tục phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm
giữa các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền
địa phương.
Ba là, hoàn thiện tổ chức và nâng cao chất lượng,
hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước
- Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc
hội, bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất. Quốc hội thực hiện tốt chức năng lập pháp,
quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao, nhất là đối
với việc quản lý, sử dụng các nguồn lực của đất nước.
Tổ chức thành công cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội,
đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, bảo đảm cơ cấu và tiêu chuẩn, nâng cao chất
lượng đại biểu, tăng số lượng đại biểu hoạt động chuyên trách một cách hợp lý.
Hoàn thiện cơ chế để nâng cao chất lượng, hiệu
quả hoạt động của cơ quan dân cử, nhất là hoạt động lập pháp của Quốc hội, đại
biểu Quốc hội, cơ chế giám sát, đánh giá đối với người giữ chức vụ do Quốc hội,
Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn. Tăng cường hơn nữa sự gắn kết giữa giám
sát của Quốc hội với kiểm tra, giám sát của Đảng, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức
chính trị-xã hội và giám sát của nhân dân.
- Hoàn thiện cơ cấu tổ chức Chính phủ.Chính phủ
là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Cần xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ là cơ
quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp
hành của Quốc hội.
Đẩy mạnh thực hiện Chương trình tổng thể cải
cách hành chính nhà nước theo hướng xây dựng nền hành chính dân chủ, hiện đại,
chuyên nghiệp, năng động, phục vụ nhân dân, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.
Hoàn thiện thể chế hành chính dân chủ-pháp quyền, quy định trách nhiệm và cơ chế
giải trình của các cơ quan nhà nước; giảm mạnh, bãi bỏ những thủ tục hành chính
gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp. Đề cao đạo đức công vụ, trách nhiệm
xã hội, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong chỉ đạo và thực thi công vụ của cán bộ,
công chức; đẩy nhanh việc áp dụng chính phủ điện tử.
- Cải cách và kiện toàn các cơ quan tư pháp. Ở
nước ta, cơ quan tư pháp bao gồm Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các
cơ quan điều tra và các cơ quan tổ chức bổ trợ tư pháp như tổ chức luật sư, cơ
quan công chứng, giám định tư pháp, tư vấn pháp luật, trong đó, Tòa án nhân dân
là nơi biểu hiện tập trung của quyền tư pháp.
Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải
cách tư pháp, xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh,
từng bước hiện đại; bảo vệ pháp luật, công lý, quyền con người, quyền công dân,
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của cơ quan, tổ chức và cá nhân. Phân định rành mạch thẩm quyền quản lý hành
chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong tổ chức, hoạt động của các cơ
quan tư pháp.
Cụ thể hóa đầy đủ các nguyên tắc hiến định về
chức năng, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân và hoạt động xét xử. Tổ chức tòa án
theo thẩm quyền xét xử; bảo đảm nguyên tắc độc lập, nguyên tắc tranh tụng trong
xét xử, bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, của đương sự. Tiếp tục xã hội
hóa một số hoạt động tư pháp và bổ trợ tư pháp có đủ điều kiện.
Viện Kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố
và kiểm sát hoạt động tư pháp; được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của
Tòa án; tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra.
Kiện toàn tổ chức cơ quan điều tra, xác định rõ
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của
cơ quan điều tra.
Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của luật
sư, bổ trợ tư pháp.
- Về chính quyền địa phương: Trên cơ sở bảo đảm
tính thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả của nền hành chính quốc gia,
xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm quản lý nhà nước của mỗi cấp chính quyền địa
phương theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Việc hoàn thiện chức năng, nhiệm
vụ, tổ chức bộ máy của chính quyền địa phương gắn kết hữu cơ với đổi mới tổ chức
và cơ chế hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội ở các cấp.
Hoàn thiện mô hình tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với đặc điểm ở nông
thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính-kinh tế đặc biệt theo luật định.
Bốn là, chú trọng công tác xây dựng đội ngũ cán
bộ, công chức
Cán bộ là cái gốc của mọi công việc, nhân tố
quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của chế
độ ta.
Đảng tập trung lãnh đạo về đường lối, chủ
trương, xây dựng tiêu chí, tiêu chuẩn, cơ chế, chính sách về cán bộ, công chức.
Đẩy mạnh dân chủ hóa công tác cán bộ, quy định
rõ trách nhiệm, thẩm quyền của mỗi tổ chức, mỗi cấp trong xây dựng đội ngũ cán
bộ, công chức có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, có
trình độ, năng lực chuyên môn phù hợp, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới.
Thực hiện thí điểm dân trực tiếp bầu một số chức
danh ở cơ sở và ở cấp huyện; mở rộng đối tượng thi tuyển chức danh cán bộ quản
lý.
Hoàn thiện tiêu chí đánh giá và cơ chế kiểm
tra, giám sát, kiểm soát việc thực thi công vụ; xác định rõ quyền hạn, trách
nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính.
Rà soát, sửa đổi, bổ sung chính sách đối với
cán bộ, công chức theo hướng khuyến khích cán bộ, công chức nâng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức công vụ, hoàn thành tốt nhiệm vụ; lấy bản lĩnh
chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực, hiệu quả thực thi nhiệm vụ để đánh giá,
đề bạt, bổ nhiệm cán bộ. Xây dựng cơ chế, chính sách đãi ngộ, thu hút, trọng dụng
nhân tài.
Năm là, đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham
nhũng, lãng phí, quan liêu, hách dịch, cửa quyền; thực hành tiết kiệm trong các
cơ quan nhà nước và trong đội ngũ cán bộ, công chức
Xác định đấu tranh phòng, chống tham nhũng,
lãng phí là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng đồng thời là nhiệm vụ khó khăn,
phức tạp, lâu dài; là trách nhiệm của các cấp ủy đảng, trước hết là người đứng
đầu cấp ủy, chính quyền, và của toàn bộ hệ thống chính trị .
Kiên quyết phòng, chống tham nhũng, lãng phí với
yêu cầu chủ động phòng ngừa, không để xảy ra tham nhũng, lãng phí; xử lý nghiêm
các hành vi tham nhũng, lãng phí, bao che, dung túng, tiếp tay cho các hành vi
tham nhũng, lãng phí, can thiệp, ngăn cản việc chống tham nhũng, lãng phí.
Đẩy mạnh việc nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung,
hoàn thiện các quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để bảo đảm
công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí có hiệu lực, hiệu quả, nhất là trong
các lĩnh vực có nguy cơ tham nhũng cao như: quản lý và sử dụng đất đai, khai
thác tài nguyên, khoáng sản; thu, chi ngân sách, mua sắm công, tài chính, ngân
hàng, thực hiện các dự án đầu tư xây dựng cơ bản; công tác cán bộ; quản lý
doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp cổ phần có vốn nhà nước và doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài; giáo dục, đào tạo và y tế.
Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục
nhằm nâng cao nhận thức, ý thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành, của cán bộ,
đảng viên, công chức, viên chức và nhân dân về công tác phòng, chống tham
nhũng, lãng phí, tạo sự thống nhất, tự giác, quyết tâm cao trong hành động.
Kiên quyết xử lý và kịp thời thay thế những cán
bộ lãnh đạo, quản lý tham nhũng, lãng phí; xử lý nghiêm minh trách nhiệm của
người đứng đầu khi để xảy ra tham nhũng, lãng phí trong tổ chức, cơ quan, đơn vị,
địa phương mình trực tiếp quản lý, các cán bộ, đảng viên, công chức vi phạm về
kê khai và minh bạch tài sản, thu nhập; kiên quyết thu hồi tiền, tài sản bị
tham nhũng,...
Đẩy mạnh cải cách chính sách tiền lương, thu nhập,
chính sách nhà ở bảo đảm cuộc sống cho cán bộ, đảng viên, công chức để góp phần
phòng, chống tham nhũng.
Kiên quyết, kiên trì xây dựng cơ chế phòng ngừa
để không thể tham nhũng; cơ chế răn đe, trừng trị để không dám tham nhũng.
Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan
có chức năng đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh
tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án để nâng cao hiệu lực, hiệu
quả công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Xây dựng cơ chế phòng ngừa, ngăn chặn quan hệ
“lợi ích nhóm”; chống đặc quyền, đặc lợi, khắc phục “tư duy nhiệm kỳ”; đẩy mạnh
cải cách hành chính, cải cách tư pháp.
Phát huy vai trò của các cơ quan dân cử, Mặt trận
Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các phương tiện thông tin đại chúng và của nhân
dân trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Xây dựng và thực hiện tốt cơ chế khuyến khích
và bảo vệ tổ chức, cá nhân phát hiện, tố cáo tham nhũng, lãng phí.
contact-form
إرسال تعليق
Cảm ơn bạn đã bình luận!