Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa |
Bài 8: PHÁT HUY SỨC MẠNH CỦA KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT
TOÀN DÂN TỘC TRONG XÂY DỰNG, BẢO VỆ TỔ QUỐC
I. TẦM QUAN TRỌNG CỦA ĐẠI ĐOÀN KẾT
TOÀN DÂN TỘCTRONG XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC
1. Cơ sở lý luận của đường lối,
chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định “quần chúng nhân
dân là người sáng tạo ra lịch sử”, “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”, sức
mạnh của nhân dân là sức mạnh vô địch, Bởi vậy; đại đoàn kết dân tộc là nội
dung, là nhiệm vụ chiến lược của cách mạng. V.I.Lênin nêu ra Cương lĩnh dân tộc
gồm ba nội dung quan trọng là thực hiện bình đẳng dân tộc, các dân tộc được quyền
tự quyết và đoàn kết tất cả các dân tộc. Cơ sở của đoàn kết dân tộc, đoàn kết
tôn giáo từ sự thống nhất về lợi ích căn bản giữa các dân tộc, giai cấp, tầng lớp
trong xã hội. Giai cấp công nhân sẽ không thể giải phóng mình nếu không giải
phóng dân tộc và giải phóng xã hội.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
trong sự nghiệp cách mạng gồm các nội dung chủ yếu: về vị trí, vai trò, về nội
dung, hình thức, nguyên tắc, phương pháp đoàn kết dân tộc.
Về vị trí, vai trò của đại đoàn kết dân tộc,
Hồ Chí Minh khẳng định, đại đoàn kết dân tộc là một chiến lược cơ bản, nhất
quán, lâu dài, là nguồn sức mạnh vô địch, là động lực chủ yếu, quyết định thành
công của cách mạng Việt Nam. “Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam bao gồm tám
chữ “đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc”. Đó là chiến lược tập hợp mọi lực lượng
nhằm hình thành và phát triển sức mạnh to lớn của toàn dân trong cuộc cách mạng
“Đoàn kết là một lực lượng vô địch của chúng ta để khắc phục khó khăn, giành lấy
thắng lợi”, “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại
thành công”. Theo Người, đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của
Đảng, phải được quán triệt trong tất cả các lĩnh vực, từ đường lối, chính sách
đến hoạt động thực tiễn.
Vệ nội dung đoàn kết dân tộc, theo tư tưởng Hồ
Chí Minh là đại đoàn kết toàn dân, là tập hợp được mọi người dân vào một khối;
phải kế thừa truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, tinh thần cộng đồng của dân tộc
Việt Nam; phải có lòng khoan dung, độ lượng, tin vào nhân dân, tin vào con người;
thực hiện phương châm “lấy dân làm gốc”.
Về hình thức, Hồ Chí Minh chỉ rõ, đại đoàn kết
dân tộc không chỉ dừng lại ở quan niệm, tư tưởng mà phải có tổ chức là Mặt trận
dân tộc thống nhất, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Mặt trận đó là tổ chức chính trị-xã
hội rộng lớn của nhân dân Việt Nam, nơi quy tụ, đoàn kết, tập hợp đông đảo các
giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, đảng phái, các tổ chức, cá nhân yêu nước
ở trong và ngoài nước cùng nhau phấn đấu vì mục tiêu chung là hòa bình, độc lập
dân tộc, thống nhất Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân.
Về các nguyên tắc cơ bản để đoàn kết là phải
trên cơ sở bảo đảm lợi ích tối cao của dân tộc và quyền lợi cơ bản của các tầng
lớp nhân dân; phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, bảo đảm đoàn
kết ngày càng rộng rãi, bền vững và đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, chân thành,
thân ái, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân đoàn kết
toàn bộ xã hội. “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng ta và dân
ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất
trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình.”
Về phương pháp thực hiện đại đoàn kết: Hồ Chí
Minh rất coi trọng việc tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng. Nội dung
tuyên truyền, giáo dục phù hợp với tâm lý, nguyện vọng chung nhất và những quyền
lợi chủ yếu nhất của quần chúng, của các tầng lớp xã hội. Lấy mục tiêu “xây dựng
một n¬ước Việt Nam hóa bình, thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh” làm điểm
chung nhất để tuyên truyền, giáo dục, vận động mọi người đoàn kết làm cách mạng.
2. Cơ sở thực tiễn của đường lối,
chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Đoàn kết là truyền thống quý báu và là bài học
lịch sử vô giá của dân tộc Việt Nam trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước.
Từ xa xưa trong lịch sử, dân tộc Việt Nam sớm có ý thức cộng đồng, ý thức đoàn
kết “bầu ơi thương lấy bí cùng…”, “lá lành đùm lá rách”…. Trên thực tế, ông cha
ta từ hàng nghìn năm trước cũng đã biết phát huy đoàn kết dân tộc. Nhà Lý thường
gả các Công chúa của mình cho các tù trưởng vùng biên cương Tổ quốc; các vua
nhà Trần thi hành kế sách “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc là thượng
sách giữ nước”, “vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả n¬ước góp sức”.
Việt Nam là một quốc gia với 54 thành phần dân
tộc, nhiều tôn giáo, tín ngưỡng khác nhau, gần bốn triệu người Việt Nam ở nước
ngoài. Các dân tộc ở nước ta vốn có truyền thống đoàn kết lâu đời trong sự nghiệp
đấu tranh dựng nước và giữ nước, xây dựng một cộng đồng Việt Nam thống nhất.
Các dân tộc thiểu sốcư trú trên địa bàn rộng lớn có vị trí chiến lược đặc biệt
quan trọng về chính trị, kinh tế, an ninh, quốc phòng và bảo vệ môi trường sinh
thái. Nhìn chung, các dân tộc ở nước ta có quy mô dân số và trình độ phát triển
kinh tế-xã hội không đều nhau, song đồng bào các dân tộc nước ta có truyền
thông đoàn kết lâu đời trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm, chế ngự thiên
nhiên, khắc phục thiên tai và xây dựng đất nước. Mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa
riêng, góp phần làm nên sự phong phú, đa dạng trong tính thống nhất của nền văn
hóa Việt Nam. Trong quá trình cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam, kế thừa tuyền
thống quý báu của dân tộc, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin đã phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đưa cách mạng Việt Nam giành những thắng lợi vô
cùng to lớn. Đoàn kết và phát huy sức mạnh toàn dân tộc đã trở thành bài học lớn
của Đảng và của cách mạng Việt Nam.
Hiện nay, trong bối cảnh đất nước còn nhiều khó
khăn, thách thức, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, khối đại đoàn kết
toàn dân tộc Việt Nam tiếp tục được mở rộng, củng cố và tăngcường. Quyền bình đẳng
dân tộc đã được phát huy. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân có
đổi mới cả về nội dung và phương thức hoạt động; phát huy ngày càng tốt hơn vai
trò tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; cùng Đảng, Nhà nước chăm
lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tham gia xây dựng
Đảng, quản lý nhà nước, quản lý xã hội; thường xuyên tổ chức các cuộc vận động,
phong trào thi đua yêu nước, góp phần tích cực vào những thành tựu chung của đất
nước. Đạt được kết quả trên là do Đảng và Nhà nước luôn chủ trương nhất quán,
phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
Tuy nhiên, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
chưa được phát huy đầy đủ, có lúc, có nơi chưa phát huy được vai trò, sức mạnh
của nhân dân. Chủ trương, quan điểm của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc, về
quyền và lợi ích hợp pháp của các giai cấp, tầng lớp nhân dân chưa được kịp thời
thể chế hóa, hoặc đã thể chế hóa nhưng chưa được thực hiện nghiêm túc. Hoạt động
của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân các cấp có lúc, có nơi chưa sâu
sát các tầng lớp nhân dân và cơ sở, còn có biểu hiện hành chính hóa, chưa thiết
thực, hiệu quả.
Những hạn chế, khuyết điểm đó là do: Chậm đổi mới
nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức chưa thật sự tôn trọng, lắng
nghe ý kiến để giải quyết kịp thời, có hiệu quả những yêu cầu, nguyện vọng
chính đáng của nhân dân. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách để thể chế hóa
đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng về Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân còn thiếu và chưa đồng bộ.
Hiện nay vấn đề dân tộc đang trở thành một vấn
đề quốc tế mang tính thời sự sâu sắc. Xung đột dân tộc đang là một trong những
nguyên nhân chủ yếu gây nên tình hình mất ổn định an ninh chính trị ở một số nước
và và khu vực trên thế giới. Các thế lực phản động quốc tế lợi dụng triệt để sự
trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa tộc người, kích động chia rẽ, ly
khai, dẫn đến nhiều cuộc xung đột mang màu sắc dân tộc ở một số quốc gia và khu
vực trên thế giới.
Lợi dụng cách mạng công nghệ thông tin, nhất là
mạng Internet và việc nước ta đang đẩy mạnh hội nhập quốc tế, các thế lực thù địch
vẫn tiếp tục dùng “Diễn biến hòa bình”, xuyên tạc lịch sử, tìm cách chia rẽ Đảng,
Nhà nước với nhân dân, với lực lượng vũ trang; kích động ly khai, chia rẽ các
dân tộc, các tôn giáo,các tầng lớp nhân dân; khoét sâu các mâu thuẫn, gây xung
đột xã hội, kích động nhân dân tụ tập đông người bất hợp pháp, bạo loạn, làm mất
ổn định chính trị-xã hội.
Tình hình khu vực và trong nước có những diễn
biến nhanh, phức tạp, khó dự báo; đan xen cả thời cơ và thách thức, thuận lợi
và khó khăn đối với sự nghiệp đổi mới nói chung và với củng cố đoàn kết toàn
dân tộc nói riêng. Củng cố và phát huy đại đoàn kết toàn dân ngày càng trở
thành yêu cầu quan trọng, cấp thiết và lâu dài nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp
của toàn dân tộc, giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, thực hiện thắng lợi
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
II. QUAN ĐIỂM VÀ PHƯƠNG HƯỚNG CỦA
ĐẢNG VỀ PHÁT HUY SỨC MẠNH CỦA KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC TRONG XÂY DỰNG VÀ
BẢO VỆ TỔ QUỐC
1) Quan điểm của Đảng về đại đoàn
kết toàn dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
- Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển 2011) đã xác định:
Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn
trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc cùng
phát triển, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt
Nam. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá, ngôn ngữ, truyền thống tốt đẹp của
các dân tộc. Chống tư tưởng kỳ thị và chia rẽ dân tộc. Các chính sách kinh tế-xã
hội phải phù hợp với đặc thù của các vùng và các dân tộc, nhất là các dân tộc
thiểu số.
Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật.
Đấu tranh và xử lý nghiêm đối với mọi hành động vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn
giáo và lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và
nhân dân.
Nghị quyết của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khoá IX (3-2003) về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc vì “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” xác định
các quan điểm sau:
Một là, đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng
liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự
lãnh đạo của Đảng là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức
mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền
vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, đại đoàn kết toàn dân tộc lấy mục tiêu
giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng, xoá bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối
xử về quá khứ, thành phần, giai cấp, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn
nhau, cùng hướng tới tương lai.
Ba là, bảo đảm công bằng và bình đẳng xã hội,
chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng, hợp pháp của các giai cấp, các tầng lớp
nhân dân; kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích toàn xã hội;
thực hiện dân chủ gắn liền với giữ gìn kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng,
lãng phí; không ngừng bồi dưỡng, nâng cao tinh thần yêu nước, ý thức độc lập
dân tộc, thống nhất Tổ quốc, tinh thần tự lực, tự cường xây dựng đất nước; xem
đó là những yếu tố quan trọng để củng cố và phát triển khối đại đoàn kết toàn
dân tộc.
Bốn là, đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân
tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức đảng, được
thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức, trong đó các chủ trương của Đảng và
chính sách, pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
2.Phương hướng và giải pháp phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
a) Phương hướng phát huy sức mạnh
toàn dân tộc
- Văn kiện Đại hội lần thứ XII của Đảng
(1-2016) đã chỉ ra phương hướng lớn :
Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược
của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên
nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức
do Đảng lãnh đạo.
Mục đích chung đoàn kết toàn dân tộc: Nhằm phát
huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm
tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc
gia-dân tộc.
Tiếp tục thể chế hóa và cụ thể hóa các quan điểm,
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc; hoàn
thiện và thực hiện có hiệu quả các cơ chế, chính sách phát huy vai trò của nhân
dân trong việc quyết định những vấn đề lớn của đất nước; bảo đảm tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân; khắc phục những hạn chế, bảo đảm tác dụng, hiệu quả
thực chất hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức chính trị-xã hội; tạo sự đồng thuận xã hội.
Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở
giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội
Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững
chắc để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
b) Giải pháp phát huy sức mạnh
toàn dân tộc
Một là, đối với giai cấp công nhân
Đảng, nhà nước tiếp tục quan tâm giáo dục, đào
tạo, bồi dưỡng, phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng;
nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp,
tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động của công nhân; bảo đảm việc làm, nâng
cao thu nhập, cải thiện điều kiện làm việc, nhà ở, các công trình phúc lợi phục
vụ cho công nhân; sửa đổi, bổ sung các chính sách, pháp luật về tiền lương, bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp,... để bảo vệ quyền lợi, nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của công nhân.
Hai là, đối với giai cấp nông dân
Xây dựng, phát huy vai trò của giai cấp nông
dân, chủ thể của quá trình phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới. Hỗ
trợ, khuyến khích nông dân học nghề, chuyển dịch cơ cấu lao động, tiếp nhận và ứng
dụng tiến bộ khoa học-công nghệ, tạo điều kiện thuận lợi để nông dân chuyển
sang làm công nghiệp và dịch vụ.
Nâng cao năng suất lao động trong nông nghiệp,
mở rộng và nâng cao chất lượng cung ứng các dịch vụ cơ bản về điện, nước sạch,
y tế, giáo dục, thông tin..., cải thiện chất lượng cuộc sống của dân cư nông
thôn; thực hiện có hiệu quả, bền vững công cuộc giảm nghèo bền vững, khuyến
khích mọi người làm giàu hợp pháp.
Ba là, đối với đội ngũ trí thức
Xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh,
có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước. Tôn trọng và phát huy tự
do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo.
Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm
chất, năng lực và kết quả cống hiến. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đãi ngộ và
tôn vinh xứng đáng những cống hiến của trí thức. Có cơ chế, chính sách đặc biệt
để thu hút nhân tài của đất nước.
Coi trọng
vai trò tư vấn, phản biện, giám định xã hội của các cơ quan nghiên cứu khoa học
trong việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước và các dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.
Bốn là, đối với đội ngũ doanh nhân
Xây dựng, phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh
cả về số lượng và chất lượng, có trình độ quản lý, kinh doanh giỏi, có đạo đức
nghề nghiệp và trách nhiệm xã hội cao. Phát huy tiềm năng và vai trò tích cực,
sáng tạo của đội ngũ doanh nhân.
Có cơ chế, chính sách bảo đảm quyền lợi của đội
ngũ doanh nhân. Tôn vinh những doanh nhân có nhiều đóng góp cho sự nghiệp phát
triển đất nước.
Năm là, đối với thế hệ trẻ
Đổi mới nội dung, phương thức giáo dục chính trị,
tư tưởng, lý tưởng, truyền thống, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, lòng yêu nước,
xây dựng đạo đức, lối sống lành mạnh, ý thức tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp
hành Hiến pháp và pháp luật cho thế hệ trẻ.
Có cơ chế, chính sách phù hợp tạo môi trường,
điều kiện thuận lợi cho thế hệ trẻ học tập, nghiên cứu, lao động, giải trí,
phát triển trí tuệ, kỹ năng, thể lực. Khuyến khích, cổ vũ thanh niên nuôi dưỡng
ước mơ, hoài bão, xung kích, sáng tạo, làm chủ khoa học, công nghệ hiện đại.
Phát huy vai trò của thế hệ trẻ trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thu hút rộng rãi thanh niên, thiếu niên và nhi đồng
tham gia các tổ chức do Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh làm nòng cốt và phụ
trách.
Sáu là, đối với phụ nữ
Nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất,
tinh thần của phụ nữ; thực hiện tốt bình đẳng giới, tạo điều kiện cho phụ nữ
phát triển tài năng. Nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện luật pháp và chính sách
đối với lao động nữ, tạo điều kiện và cơ hội để phụ nữ thực hiện tốt vai trò và
trách nhiệm của mình trong gia đình và xã hội.
Kiên quyết đấu tranh chống các tệ nạn xã hội và
xử lý nghiêm minh theo pháp luật các hành vi bạo lực, buôn bán, xâm hại nhân phẩm
phụ nữ.
Bảy là, đối với cựu chiến binh
Đảng,
Nhà nước có cơ chế, chính sách tạo điều kiện, đồng thời động viên cựu chiến
binh tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã
hội chủ nghĩa; giúp nhau làm kinh tế, cải thiện đời sống; tích cực tham gia
giáo dục lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa anh hùng cách mạng
cho thế hệ trẻ; tích cực tham gia đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng,
lãng phí, tội phạm và các tệ nạn xã hội; góp phần xây dựng và củng cố cơ sở
chính trị, xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh.
Tám là, đối với người cao tuổi
Quan tâm chăm sóc sức khỏe, tạo điều kiện để
người cao tuổi hưởng thụ văn hóa, tiếp cận thông tin, sống vui, sống khỏe, sống
hạnh phúc. Phát huy trí tuệ, kinh nghiệm sống, lao động, học tập của người cao
tuổi trong xã hội và gia đình.
Tiếp tục xây dựng gia đình “ông bà, cha mẹ mẫu
mực, con cháu thảo hiền, vợ chồng hòa thuận, anh chị em đoàn kết, thương yêu
nhau”; giúp đỡ người cao tuổi cô đơn không nơi nương tựa.
Chín là, đối với các dân tộc
Đoàn kết
các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của nước ta. Tiếp tục
hoàn thiện các cơ chế, chính sách, bảo đảm các dân tộc bình đẳng, tôn trọng,
đoàn kết, giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển,
tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng có đông đồng
bào dân tộc thiểu số, nhất là các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, tây
duyên hải miền Trung.
Nâng cao chất lượng giáo dục-đào tạo, chất lượng
nguồn nhân lực và chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số, người
tiêu biểu có uy tín trong cộng đồng các dân tộc.
Tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả
thực hiện các chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ở các cấp. Chống
kỳ thị dân tộc; nghiêm trị những âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại
đoàn kết dân tộc.
Mười là, về tín ngưỡng, tôn giáo
Với quan niệm tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu
tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của
khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đảng, Nhà nước chủ trương thực hiện nhất quán
chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một
tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Các tôn
giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật.
Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về
tín ngưỡng, tôn giáo, phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các
tôn giáo.
Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn
giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước
công nhận, theo quy định của pháp luật, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ đất nước.
Chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với
những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn
kết dân tộc hoặc những hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trái quy định của pháp luật.
Mười một là, đối với người Việt Nam ở nước
ngoài
Nhà nước hoàn thiện cơ chế, chính sách để hỗ trợ,
giúp đỡ đồng bào định cư ở nước ngoài ổn định cuộc sống, phát triển kinh tế,
góp phần tăng cường hợp tác, hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước;
được bảo hộ tính mạng, tài sản và các quyền, lợi ích chính đáng; tạo điều kiện
để đồng bào giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; có cơ chế, chính sách
thu hút đồng bào hướng về Tổ quốc, đóng góp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Mười hai là, đối với Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể nhân dân
Tiếp tục tăng cường củng cố tổ chức, nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Mặt trận Tổ quốc đóng vai trò nòng cốt trong tập
hợp, vận động nhân dân, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phát huy sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội;
giám sát và phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối
ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
`Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn
trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc cùng
phát triển, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt
Nam. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá, ngôn ngữ, truyền thống tốt đẹp của
các dân tộc. Chống tư tưởng kỳ thị và chia rẽ dân tộc. Các chính sách kinh tế-xã
hội phải phù hợp với đặc thù của các vùng và các dân tộc, nhất là các dân tộc
thiểu số. Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín
ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật. Đấu tranh và xử lý
nghiêm đối với mọi hành động vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo và lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân.
Đăng nhận xét
Cảm ơn bạn đã bình luận!